XI MĂNG VIỆT NAM 2018 - NHỮNG TÍN HIỆU KHẢ QUAN (13/03/2018)

Theo số liệu thống kê của ximang.vn, tính đến nay, toàn ngành xi măng hiện có 82 dây chuyền sản xuất xi măng lò quay vận hành với tổng công suất là 97,64 triệu tấn. Sản lượng sản phẩm xi măng xuất xưởng khoảng 83 - 85 triệu tấn, tăng 4 - 6% so với năm 2016.

 Ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh nhất


Trong năm 2017 vừa qua ghi nhận một số dây chuyền xi măng đi vào hoạt động như: giai đoạn 1 nhà máy Xi măng Sông Lam có công suất 12.000 tấn clinker/ngày (tương đương 4 triệu tấn xi măng/năm) đi vào hoạt động cuối tháng 4/2017; dây chuyền 2 nhà máy Xi măng Thành Thắng có công suất lò 6.000 tấn clinker ngày tương đương 2,3 triệu tấn/năm (tháng 7/2017); dây chuyền 2 nhà máy Xi măng Long Sơn chính thức đi vào hoạt động giữa tháng 8 vừa qua nâng tổng công suất 2 dây chuyền lên 14.000 tấn/ngày tương đương với 5 triệu tấn/năm; đầu tháng 10/2017, dây chuyền 2 nhà máy Xi măng Xuân Thành Hà Nam có công suất 12.500 tấn clinker/ngày cũng chính thức đi vào sản xuất.




Hiện nay, sản lượng xi măng Việt Nam đang đứng thứ 8 trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á; và nếu phát triển theo đúng lộ trình đã quy hoạch thì vị trí thứ 5 sẽ trong tầm tay vào khoảng năm 2020. 

Đánh giá bức tranh chung của thị trường, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của năm 2017 khá thuận lợi. Tổng sản phẩm GDP tăng 6,81%, là mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2011 đến nay và tăng vượt mục tiêu đề ra là 6,7%. Trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8% và vốn đầu tư toàn xã hội cũng đạt trên 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP. 

Còn đó những vấn đề nan giải

Năm 2017 chứng kiến sự biến động khôn lường của cát xây dựng, cả về nguồn cung, cả về giá. Giá cát xây dựng tăng mạnh đã ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư do phải điều chỉnh tổng mức đầu tư và dự toán gói thầu, điều này như một hiệu ứng domino, cũng làm ảnh hưởng đáng kể, làm giảm lượng tiêu thụ xi măng tại trị trường nội địa.

Đáng chú ý, chi phí năng lượng cũng có xu hướng tăng khiến khó khăn chồng khó khăn đối với sản xuất xi măng. Giá than, một trong những nhiên liệu đầu vào thiết yếu cho sản xuất xi măng năm 2017 đã tăng gần 10% so với năm 2016. Cùng đó, giá điện cũng tăng thêm 6,08% kể từ 1/12/2017, tác động mạnh đến chi phí năng lượng trong giá thành sản phẩm xi măng và clinker. 

Thời tiết năm qua không thuận lợi cho tiêu thụ xi măng. Mưa bão nhiều, lũ lụt lớn đặc biệt tại khu vực miền Trung đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ xi măng trong nước. Đây cũng là nguyên nhân khiến nguồn cung xi măng trong cả nước tiếp tục tăng mạnh, nhưng nhu cầu tiêu dùng xi măng trong nước lại tăng trưởng thấp so với năm 2016 khoảng 1%. Bên cạnh đó là hàng loạt yếu tố khách quan khác cũng tác động đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xi măng.




Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), nửa đầu năm 2017, ngành xi măng Việt Nam phải đối mặt với nhiều sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế bởi sức ép từ việc gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc và Thái Lan. Điều này sẽ trở thành thách thức cho các doanh nghiệp trong nước ngay nếu không tìm được hướng phát triển phù hợp. Việc Trung Quốc và Thái Lan đẩy mạnh xuất khẩu trong quý II và III/2017 đã tạo ra không ít khó khăn cho thị trường trong nước vốn đã có quá nhiều sự cạnh tranh. 

Tuy nhiên, quý IV 2017 và đầu quý I 2018, Trung Quốc đã giảm mạnh xuất khẩu, và thậm chí Việt Nam đã xuất siêu được một lượng khá lớn xi măng vào thị trường Trung Quốc. Điều này cũng đã giúp doanh nghiệp xi măng trong nước đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các diễn biến này đang được ximang.vn theo dõi chặt chẽ. 

Vấn đề công suất

Nếu tính các dự án đang tiến hành đầu tư, dự kiến hoàn thành trong năm 2018, những nhà máy xi măng đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ nâng cao năng lực sản xuất thì thực tế đến năm 2020 tổng công suất có thể lên đến 120 - 130 triệu tấn.

Trong khi đó, dự báo tiêu thụ xi măng trong nước đến năm 2020 vào khoảng 82 triệu tấn, nghĩa là sẽ dư thừa 36 - 47 triệu tấn. Số liệu của VNCA cũng ghi nhận, dự báo nhu cầu tiêu thụ trong nước từ nay đến năm 2020 mỗi năm tăng khoảng  5 - 6 triệu tấn và đến năm 2020 nhu cầu tiêu thụ xi măng trong nước khoảng 80 - 82 triệu tấn.

Một nguyên nhân khác khiến công suất ngành xi măng tăng cao so với nhu cầu tiêu thụ. Đó là do cách tính công suất trong các bản quy hoạch xi măng đã bị lạc hậu. Ví dụ theo cách tính trước đây thì để làm ra 1 tấn xi măng phải sản xuất khoảng 0,8 tấn clinker cộng với khoảng 0,2 tấn phụ gia (không phụ thuộc công suất của lò). Nhưng thực tế hiện nay, do công nghệ được cải tiến, năng suất riêng của các loại lò khác nhau (tùy theo kích thước) nên để làm ra 1 tấn xi măng, tỷ lệ clinker – phụ gia thay đổi khá nhiều, thậm chí có đơn vị chỉ cần 0,6 tấn clinker và 0,4 tấn phụ gia. Công suất trong quy hoạch đề cập là công suất đối với sản lượng clinker, vì thế trong những năm qua, khi có sự cải tiến công nghệ thì công suất thực tế được nâng lên. 

Xuất khẩu và yếu tố Trung Quốc

Hiện Việt Nam đang xuất khẩu clinker và xi măng đến 12 quốc gia và vùng lãnh thổ. Lượng xi măng xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á chiếm 29,71%, các nước khác chiếm 70,29% tổng lượng xuất khẩu.

Năm qua, các doanh nghiệp xi măng trong nước đã duy trì được sản lượng xuất khẩu xi măng ở mức hơn 21 triệu tấn, hỗ trợ đáng kể cho việc hoàn thành tiêu thụ của toàn ngành xi măng.